HIV bao gồm 2 chủng : HIV-1 và HIV-2. Ở Việt Nam, với sự phổ biến của HIV-1, mà nhiều người, thậm chí những người có chuyên môn cũng không biết hoặc hiểu lầm về sự tồn tại của HIV-2. Hãy cũng tìm hiểu các điểm khác nhau của 2 virus này.
1. Sự phổ biến
HIV-1 là chủng phổ biến nhất và có mặt cở mọi nơi thế giới. Ngược lại, HIV-2 chỉ chiếm thiểu số và chỉ phổ biến ở một số khu vực nhất định như Tây Phi và một số nước châu Âu. Ước tính, HIV-2 chỉ chiếm 1% tổng số ca nhiễm HIV trên toàn thế giới.
2. Sinh học lây truyền
HIV-2 tiến triển triển chậm hơn HIV-1. Điều này được chứng minh bởi nồng độ virus trong máu thấp. Chính vì vậy sự lây truyền của HIV-2 khó xảy ra thông qua việc quan hệ tình dục và từ mẹ sang con. Chính điều này khiến HIV-2 trở nên không phổ biến. Tuy nhiên, dù ít nguy hiểm hơn HIV-1, nhưng người nhiễm HIV-2 vẫn có các triệu chứng giai đoạn đầu ( ARS) giống với HIV-1. Nếu không điều trị, người nhiễm HIV-2 sẽ tiến triển đến giai đoạn AIDS và tử vong.
3. Xét nghiệm
Hầu hết các xét nghiệm liên quan đến kháng thể đều phải hiện được kháng thể HIV-1 và HIV-2. Tuy nhiên, xét nghiệm kháng nguyên hiện tại chỉ phát hiện kháng nguyên p24 của HIV-1. Kháng nguyên p26 của HIV-2 không thể bị phát hiện.
Xét nghiệm NAT RNA hay PCR ADN hầu như chỉ chuyên dụng cho HIV-1. Chỉ một vài nơi cung cấp xét nghiệm NAT HIV-2. Thậm chí cả xét nghiệm NAT-HIV-2 cũng thường không phát hiện virus ở trên 50% người nhiễm do nồng độ virus trong máu luôn thấp.
Để phát hiện HIV-2, cần thực hiện một chuỗi xét nghiệm tiêu chuẩn. Điều này sẽ được đề cập trong một bài viết khác.
4. Điều trị
Thuốc ARV thuộc nhóm thuốc ức chế men sao chép ngược non-nucleoside (NNRTI) không hoạt động đối với HIV-2. Điều này bao gồm efavirenz, rilpivirine, doravirine, etravirine và nevirapine. Các chất ức chế integrase hoặc chất ức chế protease được khuyến nghị trong trường hợp này.
Phác đồ 1 viên đối với HIV-2 bao gồm Triumeq (ALD), Biktarvy (TEB), Symtuza ,Genvoya …
Tài liệu tham khảo : Diagnosis and Management of HIV-2 in Adults