NGHIÊN CỨU VỀ PHÁT BAN CỦA NGƯỜI NHIỄM HIV GIAI ĐOẠN ĐẦU

Nhiều câu hỏi mà chúng tôi nhận được liên quan đến hồng ban trên da. Tuy nhiên liệu có sự khác biệt nào giữa bệnh nhân HIV và các bệnh khác không ? Chúng tôi xin phép dịch lại toàn bộ nghiên cứu sau được đăng trên website của Viện Y sinh Hoa Kỳ để trả lời cho câu hỏi này.

Mô bệnh của người nhiễm HIV

1. Tóm tắt nghiên cứu

Phát ban cấp tính xuất hiện ở những bệnh nhân nhiễm virus HIV. Nó xảy trước khi họ dương tính với xét nghiệm kháng thể. Bệnh nhân có triệu chứng giống cúm và phát ban dạng dát sẩn. Sinh thiết da từ bốn bệnh nhân cho thấy lớp biểu bì bình thường và sự thâm nhiễm lympho/histiocyte thưa thớt quanh mạch máu. Phát ban HIV cấp tính không có điểm đặc trưng và giống dạng phát ban virus cấp tính khác, nhưng khi kết hợp với lâm sàng và nguy cơ, cần xem xét khả năng nhiễm HIV.

AIDS do virus lymphocytopathic retrovirus gây ra, còn gọi là HTLV III, ARV, hoặc HIV-I. Nhiễm HIV cấp tính gây ban hồng đột ngột xảy ra và kéo dài từ một đến hai tuần, với các triệu chứng như đau đầu, đau cơ, sốt và đau họng. Phát ban không ngứa và mờ trong vòng hai tuần. Bệnh nhân ban đầu âm tính với kháng thể HIV nhưng dương tính với kháng nguyên HIV. Các xét nghiệm kháng thể dương tính sau đó vài tuần

2. Phương pháp

Bốn bệnh nhân với triệu chứng đau đầu, đau cơ, sốt, đau họng và phát ban da được nhập viện khoa da liễu. Mẫu máu được lấy để xét nghiệm huyết thanh HIV, giang mai, toxoplasmosis, nhiễm cytomegalovirus, viêm gan B và virus Epstein-Barr. Sinh thiết da được thực hiện ở các vùng dát trên thân trên. Mẫu mô được cắt thành các lát dày 4 micromet và nhuộm bằng hematoxylin và eosin, van-Gieson, Hansen/alcian blue và acid Schiff.

3. Kết quả 

Biểu bì không bị ảnh hưởng, không có parakeratosis, spongiosis, keratinocyte hoại tử hoặc thoái hóa hydropic. Trong một mẫu, có vài tế bào lympho ở phần dưới của biểu bì. Ở lớp bì, có sự thâm nhiễm lympho/histiocyte thưa thớt quanh mạch máu. Các tế bào plasma không xuất hiện. Các mạch máu không thay đổi và không có hiện tượng xuất huyết. Lớp bì sâu hơn không bị ảnh hưởng. Trong một mẫu khác, có sự thâm nhiễm lympho/histiocyte quanh nang lông, với các nang lông giãn chứa bào tử pityrosporum và ve demodectic. Bệnh nhân ban đầu âm tính với kháng thể HIV, sau đó chuyển dương tính từ ba đến chín tuần sau. Các xét nghiệm huyết thanh khác cho kết quả âm tính hoặc cho thấy nhiễm trước đó với cytomegalovirus hoặc virus Epstein-Barr.

4. Thảo luận

Các phát hiện bệnh lý của bốn trường hợp cho thấy có ít hoặc không có thay đổi ở biểu bì và chỉ có sự thâm nhiễm lympho/histiocyte nhẹ quanh mạch máu bề mặt là những thay đổi thường gặp trong nhiều nhiễm virus cấp tính. Về lâm sàng, chẩn đoán phân biệt bao gồm pityriasis rosea, giang mai thứ cấp và các phát ban do virus hoặc thuốc. Về mô học, không có thay đổi ở biểu bì trừ một vài tế bào lympho ở phần dưới của biểu mô loại trừ pityriasis rosea. Trong một số trường hợp giang mai thứ cấp, đặc biệt là roseola, sự thâm nhiễm tế bào plasma rất ít hoặc không có ở mạch máu. Không thể phân biệt phát ban HIV qua mô học. Không có bệnh nhân nào có dấu hiệu lâm sàng hoặc huyết thanh của giang mai. Các thay đổi mô học trong phát ban HIV giống với các phát ban do virus và thuốc khác. Perifolliculitis được quan sát trong một mẫu sinh thiết có thể không liên quan đến phát ban HIV và chỉ là phát hiện ngẫu nhiên. Viêm mạch máu da đã được mô tả ở bệnh nhân nhiễm HIV với các phức hợp miễn dịch lưu hành và lắng đọng trong thành mạch máu. Với lây lan của virus AIDS không chỉ ở người đồng tính mà còn ở người dị tính, bác sĩ cần xem xét khả năng nhiễm HIV khi các đặc điểm mô bệnh học và lâm sàng gợi ý.

Nguồn:

https://www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC502329/